Xu hướng lão hóa

Khảo sát dân số già hóa toàn cầu

(Châu Á, Châu Âu, Nam Mỹ) Xu hướng cơ cấu dân số già hóa

Châu Á

Nhật Bản

Bối cảnh lịch sử

Người ta đưa tin rằng vào khoảng năm 1915, tỷ lệ già hóa dân số của Nhật Bản là 5% và trong tương lai gần, tỷ lệ già hóa dân số của Nhật Bản có thể đạt tới 40%, trở thành "quốc gia của người cao tuổi".

Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, tuổi thọ trung bình của người Nhật Bản tiếp tục tăng, trở thành một trong những quốc gia có tuổi thọ cao nhất thế giới. Tuổi thọ trung bình hiện tại của nam giới là 81,25 tuổi và nữ giới là 87,32 tuổi vào năm 2018, và đến năm 2065, con số này sẽ đạt 84,95 tuổi đối với nam giới và 91,35 tuổi đối với nữ giới. Tỷ lệ người trên 65 tuổi trong dân số (tỷ lệ già hóa) tiếp tục tăng, đạt mức cao nhất thế giới. Tỷ lệ già hóa hiện là 28,4% vào năm 2019 và dự kiến ​​sẽ đạt 33,3% vào năm 2036 và 38,4% vào năm 2065.

Khảo sát mới nhất

Số lượng trẻ sơ sinh tại Nhật Bản lần đầu tiên giảm xuống dưới 1 triệu vào năm 2016, và kể từ đó đã liên tục chạm mức thấp mới. Tỷ lệ già hóa dân số của Nhật Bản có thể đạt 40% và trở thành "quốc gia của người cao tuổi". Theo số liệu điều tra dân số cuối cùng năm 2020 do Bộ Nội vụ và Truyền thông công bố vào ngày 30 tháng 11 năm 2021, tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, tổng dân số Nhật Bản, bao gồm cả người nước ngoài, là 126.146.099 người.

Theo số liệu điều tra dân số cuối cùng năm 2020 do Bộ Nội vụ và Truyền thông công bố ngày 30 tháng 11 năm 2021, tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, tổng dân số Nhật Bản, bao gồm cả người nước ngoài, là 126.146.099 người. Tổng dân số đã giảm 948.646 người so với cuộc điều tra gần nhất được thực hiện vào năm 2015, giảm 0,7%, cho thấy xu hướng giảm trong cuộc điều tra thứ hai liên tiếp. Ngoài ra, dân số Nhật Bản trên 65 tuổi chiếm 28,6% tổng dân số, tăng 2,0 điểm phần trăm so với cuộc điều tra trước đó, một lần nữa lập kỷ lục mới.

Theo tiêu chuẩn phân loại được quốc tế công nhận, dân số trên 65 tuổi chiếm hơn 7% tổng dân số, tức là đã bước vào xã hội già hóa. Nếu đạt 14%, tức là đã bước vào xã hội già hóa sâu. Nếu đạt 20%, tức là đã bước vào xã hội siêu già.

Năm 2021, với sự sụt giảm liên tục của dân số mới, tổng số người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên ở Nhật Bản và tỷ lệ của họ trong tổng dân số đều sẽ đạt mức cao kỷ lục - lần lượt là 35,357 triệu người và 28%.

Hình 1 Thông báo của Văn phòng Nội các - Xu hướng lão hóa và Dự báo tương lai

Hình 1 Thông báo của Văn phòng Nội các - Xu hướng lão hóa và Dự báo tương lai

Hình 2 Thông báo của Văn phòng Nội các - Sách trắng năm 2020 về Xã hội già hóa

Hình 2 Thông báo của Văn phòng Nội các - Sách trắng năm 2020 về Xã hội già hóa

Kim tự tháp dân số - Kim tự tháp dân số Nhật Bản năm 2022

JP Nhật Bản

Vào năm 2022, phân bố dân số của Nhật Bản là:

Tổng cộng dân số

124.278.309

100%

Vị thành niên dân số

14.539.356

11,70%

Độ tuổi lao động dân số

72.620.161

58,43%

Người già dân số

37.118.792

29,87%

Dân số người cao tuổi sẽ tăng gấp đôi dân số thanh thiếu niên vào năm 2022. Tổng dân số đạt đỉnh ở mức 128, 131, 400 vào năm 2010.

Năm 2050, dân số cao tuổi sẽ chiếm 37,43% dân số Nhật Bản và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng. [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hàn Quốc

Theo số liệu thống kê người cao tuổi năm 2021 do Cục Thống kê Quốc gia Hàn Quốc công bố vào ngày 29 tháng 9 năm 2019 nhân Ngày Người cao tuổi 2 tháng 10, dân số Hàn Quốc từ 65 tuổi trở lên năm nay là 8,537 triệu người, chiếm 16,5% tổng dân số. Liên Hợp Quốc (LHQ) gọi là "xã hội già hóa" khi tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên vượt quá 7% tổng dân số, "xã hội già hóa" khi vượt quá 14% và "xã hội siêu già hóa" khi vượt quá 20%.

Tính đến ngày 1 tháng 11 năm 2021, tổng dân số Hàn Quốc là 51,738 triệu người, giảm 91.000 người so với năm trước. Dữ liệu cho thấy dân số cao tuổi trên 65 tuổi của Hàn Quốc đã tăng 5,1% vào năm ngoái so với năm 2020, chiếm 16,8% tổng dân số, so với mức 13,3% của năm 2016. Lee Tae-suk, Trưởng nhóm nghiên cứu ứng phó với cơ cấu dân số tại Viện Phát triển Hàn Quốc, chỉ ra rằng tỷ lệ sinh thấp và vấn đề già hóa dân số song hành, và cuộc khủng hoảng dân số có thể phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính quốc gia.

Hàn Quốc đã bước vào xã hội già hóa vào năm 2017. Cục Thống kê dự đoán tỷ lệ dân số cao tuổi sẽ tiếp tục tăng trong tương lai và Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ bước vào xã hội siêu già vào năm 2025 (20,3%, 10,511 triệu người).

Số liệu của chính phủ Hàn Quốc cho thấy trong 10 năm qua, dân số từ 60 tuổi trở lên đã tăng 4%, dân số từ 70 tuổi trở lên đã tăng khoảng 3,5%, trong khi số lượng thanh thiếu niên đã giảm 4%. Dân số đã giảm 3%.

Cơ quan Thống kê Hàn Quốc dự đoán rằng đến năm 2067, Hàn Quốc sẽ trở thành quốc gia có dân số già hóa nhất thế giới, với một nửa dân số trên 65 tuổi.

Theo khảo sát dữ liệu, mặc dù tỷ lệ nghèo đói của người cao tuổi ở Hàn Quốc đã cải thiện đôi chút, nhưng vẫn đứng đầu trong số các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số và tuổi thọ trung bình của người cao tuổi đều tăng lên hàng năm, cũng như số lượng người cao tuổi bị ngược đãi.

Tuy nhiên, tình hình tài chính của người cao tuổi vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện. Tỷ lệ nghèo tương đối (dưới 50% thu nhập trung bình) trong số những người nghỉ hưu trên 66 tuổi tại Hàn Quốc là 43,2% vào năm 2019. Mặc dù có xu hướng cải thiện hàng năm kể từ năm 2016, nhưng tốc độ cải thiện vẫn rất chậm. Hàn Quốc có tỷ lệ nghèo ở người cao tuổi cao nhất trong số các nước OECD. Tính đến năm 2018, tỷ lệ nghèo ở người cao tuổi của Hàn Quốc (43,4%) cao hơn Latvia (39%), Estonia (37,6%) và Mexico (26,6%).

Tuổi thọ trung bình của người cao tuổi đang tăng lên qua từng năm. Tính theo năm 2019, người 65 tuổi có tuổi thọ trung bình còn lại là 21,3 năm, và người 75 tuổi có tuổi thọ trung bình còn lại là 13,2 năm, mỗi năm tăng 0,5 năm so với năm trước. Tuổi thọ trung bình còn lại của người 65 tuổi ở Hàn Quốc là 23,4 năm đối với nữ và 19,1 năm đối với nam, thuộc nhóm cao nhất trong số các nước thành viên OECD. Đặc biệt, tuổi thọ trung bình còn lại của phụ nữ 65 tuổi chỉ đứng sau Nhật Bản (24,6 năm) và Pháp (23,9 năm).

Trung tâm dữ liệu quốc gia Figure M Hàn Quốc
Trung tâm dữ liệu quốc gia Figure M Hàn Quốc

[Hình-M] Theo Trung tâm Dữ liệu Quốc gia Hàn Quốc, từ phân bố độ tuổi được công bố lần này, dân số trong độ tuổi 50-59 tại Hàn Quốc là 8,64 triệu người (16,7%), chiếm tỷ lệ lớn nhất. Tiếp theo là nhóm tuổi 40-49 (16%), 30-39 (13,3%), 20-29 (13,1%), 60-69 (13%), trên 70 tuổi (11,0%) và 10-29 tuổi (13,1%). Đáng chú ý là dân số trên 60 tuổi tại Hàn Quốc chiếm gần một phần tư, và hiện tượng già hóa dân số đang ngày càng gia tăng.

Kim tự tháp dân số - Dân số Hàn Quốc năm 2022

KR Korea (Đại Hàn Dân Quốc)

Vào năm 2022, phân bố dân số của Hàn Quốc là:

Tổng cộng dân số

51.829.025

100%

Vị thành niên dân số

6.088.966

11,75%

Đang làm việc tuổi dân số

36.903.989

71,20%

Người già dân số

8.836.070

17,05%

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ ít hơn 60% tổng dân số vào năm 2038. Dân số cao tuổi sẽ vượt quá dân số thanh thiếu niên vào năm 2027

gấp đôi. Tổng dân số đạt đỉnh 51.858.127 vào năm 2020.

Vào năm 2050, dân số cao tuổi sẽ chiếm 39,22% dân số Hàn Quốc và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng. [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

 Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hàn Quốc

Theo số liệu thống kê người cao tuổi năm 2021 do Cục Thống kê Quốc gia Hàn Quốc công bố vào ngày 29 tháng 9 năm 2019 nhân Ngày Người cao tuổi 2 tháng 10, dân số Hàn Quốc từ 65 tuổi trở lên năm nay là 8,537 triệu người, chiếm 16,5% tổng dân số. Liên Hợp Quốc (LHQ) gọi là "xã hội già hóa" khi tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên vượt quá 7% tổng dân số, "xã hội già hóa" khi vượt quá 14% và "xã hội siêu già hóa" khi vượt quá 20%.

Tính đến ngày 1 tháng 11 năm 2021, tổng dân số Hàn Quốc là 51,738 triệu người, giảm 91.000 người so với năm trước. Dữ liệu cho thấy dân số cao tuổi trên 65 tuổi của Hàn Quốc đã tăng 5,1% vào năm ngoái so với năm 2020, chiếm 16,8% tổng dân số, so với mức 13,3% của năm 2016. Lee Tae-suk, Trưởng nhóm nghiên cứu ứng phó với cơ cấu dân số tại Viện Phát triển Hàn Quốc, chỉ ra rằng tỷ lệ sinh thấp và vấn đề già hóa dân số song hành, và cuộc khủng hoảng dân số có thể phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính quốc gia.

Hàn Quốc đã bước vào xã hội già hóa vào năm 2017. Cục Thống kê dự đoán tỷ lệ dân số cao tuổi sẽ tiếp tục tăng trong tương lai và Hàn Quốc dự kiến ​​sẽ bước vào xã hội siêu già vào năm 2025 (20,3%, 10,511 triệu người).

Số liệu của chính phủ Hàn Quốc cho thấy trong 10 năm qua, dân số từ 60 tuổi trở lên đã tăng 4%, dân số từ 70 tuổi trở lên đã tăng khoảng 3,5%, trong khi số lượng thanh thiếu niên đã giảm 4%. Dân số đã giảm 3%.

Cơ quan Thống kê Hàn Quốc dự đoán rằng đến năm 2067, Hàn Quốc sẽ trở thành quốc gia có dân số già hóa nhất thế giới, với một nửa dân số trên 65 tuổi.

Theo khảo sát dữ liệu, mặc dù tỷ lệ nghèo đói của người cao tuổi ở Hàn Quốc đã cải thiện đôi chút, nhưng vẫn đứng đầu trong số các quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số và tuổi thọ trung bình của người cao tuổi đều tăng lên hàng năm, cũng như số lượng người cao tuổi bị ngược đãi.

Tuy nhiên, tình hình tài chính của người cao tuổi vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện. Tỷ lệ nghèo tương đối (dưới 50% thu nhập trung bình) trong số những người nghỉ hưu trên 66 tuổi tại Hàn Quốc là 43,2% vào năm 2019. Mặc dù có xu hướng cải thiện hàng năm kể từ năm 2016, nhưng tốc độ cải thiện vẫn rất chậm. Hàn Quốc có tỷ lệ nghèo ở người cao tuổi cao nhất trong số các nước OECD. Tính đến năm 2018, tỷ lệ nghèo ở người cao tuổi của Hàn Quốc (43,4%) cao hơn Latvia (39%), Estonia (37,6%) và Mexico (26,6%).

Tuổi thọ trung bình của người cao tuổi đang tăng lên qua từng năm. Tính theo năm 2019, người 65 tuổi có tuổi thọ trung bình còn lại là 21,3 năm, và người 75 tuổi có tuổi thọ trung bình còn lại là 13,2 năm, mỗi năm tăng 0,5 năm so với năm trước. Tuổi thọ trung bình còn lại của người 65 tuổi ở Hàn Quốc là 23,4 năm đối với nữ và 19,1 năm đối với nam, thuộc nhóm cao nhất trong số các nước thành viên OECD. Đặc biệt, tuổi thọ trung bình còn lại của phụ nữ 65 tuổi chỉ đứng sau Nhật Bản (24,6 năm) và Pháp (23,9 năm).

Trung tâm dữ liệu quốc gia Figure M Hàn Quốc
Trung tâm dữ liệu quốc gia Figure M Hàn Quốc

[Hình-M] Theo Trung tâm Dữ liệu Quốc gia Hàn Quốc, từ phân bố độ tuổi được công bố lần này, dân số trong độ tuổi 50-59 tại Hàn Quốc là 8,64 triệu người (16,7%), chiếm tỷ lệ lớn nhất. Tiếp theo là nhóm tuổi 40-49 (16%), 30-39 (13,3%), 20-29 (13,1%), 60-69 (13%), trên 70 tuổi (11,0%) và 10-29 tuổi (13,1%). Đáng chú ý là dân số trên 60 tuổi tại Hàn Quốc chiếm gần một phần tư, và hiện tượng già hóa dân số đang ngày càng gia tăng.

Kim tự tháp dân số - Dân số Hàn Quốc năm 2022

KR Korea (Đại Hàn Dân Quốc)

Vào năm 2022, phân bố dân số của Hàn Quốc là:

Tổng cộng dân số

51.829.025

100%

Vị thành niên dân số

6.088.966

11,75%

Đang làm việc tuổi dân số

36.903.989

71,20%

Người già dân số

8.836.070

17,05%

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ ít hơn 60% tổng dân số vào năm 2038. Dân số cao tuổi sẽ vượt quá dân số thanh thiếu niên vào năm 2027

gấp đôi. Tổng dân số đạt đỉnh 51.858.127 vào năm 2020.

Vào năm 2050, dân số cao tuổi sẽ chiếm 39,22% dân số Hàn Quốc và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng. [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

 Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Châu Âu

Dữ liệu mới nhất từ ​​Eurostat cho thấy vào năm 2019, dân số cao tuổi trên 65 tuổi tại 27 quốc gia EU đã đạt 90,5 triệu người, chiếm 20,3% tổng dân số. Đến năm 2050, dân số trên 65 tuổi sẽ đạt 129,8 triệu người, chiếm 29,4% tổng dân số.

Nhìn chung, tỷ lệ già hóa dân số ở các nước châu Âu tương đối cao. Trong đó, Ý đã đạt 23%, số người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên là khoảng 14,09 triệu người; Bồ Đào Nha và Đức có tỷ lệ già hóa dân số là 22%, trong đó Đức có người từ 65 tuổi trở lên, số người cao tuổi là khoảng 17,97 triệu người.

Hy Lạp có tỷ lệ già hóa dân số là 21%, Thụy Điển, Pháp và Tây Ban Nha đều có tỷ lệ già hóa dân số là 20%. Trong số đó, số người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên ở Pháp là khoảng 13,44 triệu người, hai quốc gia còn lại có dưới 10 triệu người.

Ý

Bối cảnh lịch sử

Ý được coi là một trong những quốc gia có tình trạng già hóa dân số nghiêm trọng nhất. Trong mười năm qua, độ tuổi trung bình của cư dân Ý đã tăng từ 43 lên 45,7 tuổi, tuổi thọ trung bình của nam giới đạt 81 tuổi và tuổi thọ trung bình của nữ giới đạt 85,3 tuổi, tỷ lệ dân số trên 65 tuổi tăng lên 23,2%.

Dữ liệu cho thấy tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2017, dân số Ý là 60,57 triệu người, giảm 86.000 người so với cùng kỳ năm ngoái và là mức tăng trưởng âm trong chín năm liên tiếp kể từ năm 2007. Số ca sinh mới giảm xuống còn 474.000 vào năm 2016 từ mức 486.000 của năm trước, và số ca tử vong giảm xuống còn 608.000 từ mức 648.000. Hơn 115.000 người Ý đã di cư ra nước ngoài vào năm 2016, tăng 12,6% so với năm 2015.

Báo cáo chỉ ra rằng quá trình già hóa dân số Ý vẫn tiếp diễn. Năm 2016, dân số trên 65 tuổi vượt quá 13,5 triệu người, chiếm 22,3% tổng dân số cả nước, tăng 0,3% so với năm trước. Đồng thời, tuổi thọ trung bình của nam giới Ý năm 2016 tăng từ 80,1 tuổi của năm trước lên 80,6 tuổi, và của nữ giới tăng từ 84,6 tuổi lên 85,1 tuổi. Ngoài ra, độ tuổi sinh con trung bình của phụ nữ Ý tăng lên 31,7 tuổi vào năm 2016, và tỷ lệ sinh trung bình giảm từ 1,35 tuổi của năm ngoái xuống còn 1,34 tuổi.

Theo thống kê năm 2019, Ý là quốc gia có tỷ lệ già hóa dân số cao thứ hai thế giới. Tổng dân số Ý là khoảng 59,5 triệu người, trong đó khoảng 28,6% trên 60 tuổi và 22,4% trên 65 tuổi. Cứ 5 người Ý thì có 1 người trên 65 tuổi. Đức là quốc gia có tỷ lệ già hóa dân số cao thứ ba thế giới. Tổng dân số Đức là khoảng 83,15 triệu người, trong đó dân số trên 60 tuổi chiếm khoảng 27,4% và dân số trên 65 tuổi chiếm khoảng 21,1%.

Khảo sát mới nhất

Trong báo cáo mới nhất do Cục Thống kê Trung ương Ý công bố, dân số Ý dự kiến ​​sẽ giảm xuống còn khoảng 47,6 triệu người vào năm 2070, giảm khoảng 20% ​​so với tháng 1 năm 2020. Truyền thông địa phương của Ý đưa tin vào ngày 27 rằng dân số Ý là khoảng 59,6 triệu người vào tháng 1 năm 2020 và con số này dự kiến ​​sẽ giảm xuống còn khoảng 58 triệu người vào năm 2030 và tiếp tục giảm xuống còn khoảng 54,1 triệu người vào năm 2050.

Bên cạnh việc dân số giảm sút, tình trạng già hóa dân số của Ý cũng không thể bỏ qua. Cục Thống kê Trung ương dự đoán rằng từ năm 2020 đến năm 2050, độ tuổi trung bình của người Ý sẽ tăng từ 45,7 tuổi lên 50,7 tuổi; tỷ lệ người trên 65 tuổi trong tổng dân số sẽ tăng từ 23,2% lên 35%; tỷ lệ người dưới 14 tuổi sẽ tăng từ 13% lên không quá 12%; tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm từ 63% xuống 53%. Tỷ lệ sinh của Ý đã ở mức thấp so với các nước châu Âu trong nhiều năm. Kể từ năm 2007, tỷ lệ tử vong của dân số Ý đã vượt quá tỷ lệ sinh hàng năm.

Viện nghiên cứu của Liên đoàn Lao động Ý cho biết dân số già hóa sẽ tác động nghiêm trọng đến thị trường lao động của nước này. Trong 20 năm tới, dân số trong độ tuổi lao động từ 16 đến 63 tuổi của Ý sẽ giảm 6,8 triệu người, trong khi dân số ngoài độ tuổi lao động dưới 15 tuổi và trên 64 tuổi sẽ tăng 3,8 triệu người.

Năm 2021, truyền thông Ý đưa tin, hiện tại, số người Ý trên 65 tuổi cao gấp 1,5 lần số người trẻ dưới 14 tuổi, và đến năm 2030, tỷ lệ này sẽ tăng lên 2,07 lần. Những thay đổi trong cơ cấu dân số của xã hội già hóa đã mang đến những thách thức nghiêm trọng cho chính trị, kinh tế và xã hội Ý.

Sự gia tăng dân số già hóa đã gây ra một số vấn đề xã hội. Ví dụ, xu hướng thiên về dư luận của cử tri lớn tuổi đã tác động đến chính sách quốc gia và định hình lại xu hướng kinh tế xã hội của Ý. Ngoài ra, người Ý có ý thức mạnh mẽ về gia đình và việc chăm sóc người cao tuổi được coi là trách nhiệm của gia đình. Tỷ lệ viện dưỡng lão và dịch vụ chăm sóc tại nhà ở Ý không cao, và các cơ quan chính phủ và xã hội sẽ chỉ can thiệp khi những người con đã lớn tuổi và người già đơn thân cần đến họ. Do đó, tình trạng sức khỏe và việc chăm sóc hàng ngày cho người cao tuổi đã trở thành một vấn đề ngày càng quan trọng trong xã hội Ý. Hãng thông tấn Ý ANSA đã trích dẫn dữ liệu mới nhất từ ​​Đài quan sát Y tế Ý cho thấy đến năm 2028, sẽ có khoảng 6,3 triệu người cao tuổi ở Ý mất đi sự độc lập, điều này sẽ gây ra các vấn đề xã hội nghiêm trọng như thiếu sự chăm sóc. Đồng thời, tỷ lệ người cao tuổi ở Ý mắc chứng trầm cảm và các vụ ly hôn của nhóm người cao tuổi tái tổ chức gia đình cũng đang gia tăng trong những năm gần đây.

Kim tự tháp dân số - Kim tự tháp dân số của Ý năm 2022

CNTT Ý

Vào năm 2022, phân bố dân số của Ý là:

Tổng dân số

59.119.400

100%

Dân số vị thành niên

7.416.450

12,54%

Dân số trong độ tuổi lao động

37.601.842

63,60%

Dân số cao tuổi

14.101.108

23,85%

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ chiếm chưa đến 60% tổng dân số vào năm 2032. Dân số cao tuổi sẽ gấp đôi dân số thanh thiếu niên vào năm 2024. Tổng dân số đạt đỉnh là 60.347.844 vào năm 2014.

Vào năm 2050, dân số cao tuổi sẽ chiếm 37,09% dân số Ý và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng.]Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Đức

Bối cảnh lịch sử

Nước Đức bắt đầu quá trình già hóa dân số kéo dài vào nửa sau thế kỷ 19. Năm 1930, dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 7% tổng dân số, đánh dấu Đức đã dẫn đầu trong việc bước vào xã hội già hóa. Kể từ đó, tỷ lệ người cao tuổi tiếp tục tăng. Trong vòng 45 năm, từ năm 1930 đến năm 1975, tỷ lệ dân số Đức từ 65 tuổi trở lên đã tăng vọt từ 7% lên 14%.

Tình hình kinh tế của Đức khá dễ chấp nhận tình trạng già hóa dân số, do đó tỷ lệ bảo hiểm lương hưu và mức lương hưu tương đối cao. Theo thống kê, mức phí bảo hiểm lương hưu theo luật định tại Đức năm 1997 và 1998 lên tới 20,3%. Nền tảng kinh tế vững mạnh của Đức tạo điều kiện để duy trì chi tiêu lương hưu cao. Tuy nhiên, sự phát triển ngày càng sâu sắc của tình trạng già hóa dân số và tuổi thọ tăng lên chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng số lượng người hưởng lương hưu và số năm họ nhận được. Ngay cả trong tình hình kinh tế hiện tại, vẫn còn nghi ngờ liệu mức phúc lợi cao ban đầu có thể được duy trì hay không. Nếu tình hình kinh tế xấu đi và sự cứng nhắc của phúc lợi cao khiến việc giảm mạnh mức lương hưu trở nên khó khăn, thì việc cưỡi hổ sẽ khó khăn. Đức nhận thức được điều này và đã cố gắng giảm mức lương hưu quá mức trong Đạo luật Cải cách Lương hưu năm 1999, thêm hệ số phát triển dân số vào công thức tính lương hưu, đồng thời đảm bảo mức giảm lương hưu ở mức vừa phải, với Điều khoản Đảm bảo Mức lương hưu Vàng / lương hưu 0 để đảm bảo mức lương hưu tiêu chuẩn.

Khảo sát mới nhất

Năm 2020, dân số Đức là 83,155 triệu người, với tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên là -2,5‰, giảm 0,9 điểm phần trăm so với thời kỳ bùng nổ trẻ sơ sinh năm 1964. Trong 48 năm liên tiếp, dân số mới không thể bù đắp được khoảng cách tử vong, chủ yếu dựa vào người nhập cư và người nhập cư thế hệ thứ hai làm nguồn tăng trưởng dân số. Dân số Đức dự kiến ​​sẽ giảm khoảng 6% vào năm 2060 so với năm 2020. Có 212.000 ca tử vong nhiều hơn số ca sinh ở Đức vào năm 2020, tăng từ 161.000 vào năm 2019 và khoảng cách tăng trưởng dân số tự nhiên ngày càng mở rộng. Theo Cục Thống kê Liên bang Đức, mặc dù tỷ lệ tử vong của dân số Đức tăng vào năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh tân vương miện, nhưng số người cao tuổi vẫn tiếp tục tăng. Dân số từ 80 tuổi trở lên tăng 4,5% so với năm trước lên 5,9 triệu người, đẩy giá lương hưu, vàng và chi phí chăm sóc sức khỏe lên cao.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, từ năm 1950 đến năm 2020, tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên ở Đức đã tăng từ 9,7% lên 21,9%, cao hơn so với 16,6%, 18,2%, 18,7% và 20,8% của Hoa Kỳ, Hồng Kông, Trung Quốc và Pháp. Nước này đứng thứ sáu trên thế giới và dự kiến ​​sẽ đạt 28,5% vào năm 2060. Về độ tuổi trung vị, theo số liệu của CIA World Factbook, độ tuổi trung vị ở Đức đã tăng từ 34,2 tuổi lên 47,8 tuổi trong giai đoạn 1970-2020, đứng thứ tư trên thế giới, thấp hơn một chút so với độ tuổi 48,7 tuổi của Nhật Bản và cao hơn nhiều so với Ý, Pháp, Anh và Hoa Kỳ. Xét về tốc độ già hóa, tốc độ già hóa của Đức chỉ đứng sau Nhật Bản, đứng đầu trong các nước phương Tây. Đức mất 40 năm để chuyển đổi từ dân số già hóa với hơn 7% dân số từ 65 tuổi trở lên sang tình trạng già hóa sâu với hơn 14%, và 65, 126, 46, 24 năm ở Hoa Kỳ, Pháp, Vương quốc Anh và Nhật Bản.

Theo số liệu nhân khẩu học mới nhất do Cục Thống kê Liên bang Đức công bố ngày 27 tháng 12 năm 2020, tính đến cuối năm 2019, Đức có 17,7 triệu người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên, chiếm 21,4% tổng dân số. Dân số cao tuổi của Đức đã tăng 36,6% trong 20 năm qua. Vào cuối năm 1997, dân số cao tuổi của Đức từ 65 tuổi trở lên là 13 triệu người, chiếm 15,8% tổng dân số.

Phụ nữ chiếm 56,4% dân số Đức từ 65 tuổi trở lên, so với 63% vào cuối năm 1997. Trong số các nước EU, Đức là quốc gia có tỷ lệ già hóa dân số tương đối nghiêm trọng. Tỷ lệ trung bình dân số từ 65 tuổi trở lên ở EU là 19,4% tổng dân số, chỉ sau Ý và Hy Lạp, già hơn Đức một chút.

Với xu hướng già hóa dân số, Đức đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực điều dưỡng nghiêm trọng. Theo báo cáo của truyền thông địa phương, Đức hiện có gần 1 triệu nhân viên điều dưỡng, và công việc điều dưỡng đang rất áp lực. Vào cuối năm 2017, khoảng 2,9 triệu người ở Đức cần được chăm sóc, và đến năm 2030, dự kiến ​​sẽ có 4,1 triệu người cần được chăm sóc.

Vào tháng 7 năm 2020, chính phủ Đức đã công bố kế hoạch tăng lương cho nhân viên điều dưỡng, cải thiện điều kiện làm việc và tăng cường đào tạo điều dưỡng. Bộ trưởng Y tế Jens Spahn cũng cho biết kế hoạch tuyển dụng thêm nhân viên điều dưỡng từ nước ngoài.

Vào tháng 12 năm 2019, 4,13 triệu người ở Đức cần được chăm sóc dài hạn theo định nghĩa của Đạo luật Bảo hiểm Chăm sóc Dài hạn, tăng đáng kể 710.000 người hoặc 21% so với 3,41 triệu người cần được chăm sóc dài hạn vào tháng 12 năm 2017.

Khi khái niệm chăm sóc dài hạn mới, rộng hơn được biết đến và quá trình lão hóa ngày càng sâu sắc, số lượng người cần được chăm sóc sẽ tăng lên hàng năm. Về số lượng nhân viên tham gia chăm sóc điều dưỡng, năm 2017, Đức có 764.000 nhân viên điều dưỡng tại các viện dưỡng lão và 390.000 nhân viên điều dưỡng tại nhà, tổng cộng là 1,155 triệu người, thấp hơn nhiều so với con số 3,41 triệu người cần dịch vụ điều dưỡng trong năm đó.

Xét theo sự phân bố của các cơ sở chăm sóc sức khỏe và các cơ sở y tế gần nơi cư trú, khoảng 67% số người cần chăm sóc điều dưỡng tại Đức vào năm 2019 sống trong môi trường gia đình và được người thân hoặc các chuyên gia cung cấp dịch vụ chăm sóc ngoại trú chăm sóc. Tuy nhiên, theo Viện Nhân khẩu học Berlin, hơn 76% thế hệ bùng nổ trẻ em Đức thích sống tự lập lâu hơn và di chuyển tự do quanh nơi cư trú của họ, thay vì chỉ được chăm sóc tại nhà. Đồng thời, 35% người cao tuổi trong cộng đồng tin rằng việc có một bác sĩ gia đình đầy đủ và cửa hàng vật tư y tế trong phạm vi di chuyển ngắn bằng xe đi bộ hoặc xe chở hàng ngày càng quan trọng hơn. Đặc biệt là ở miền Đông nước Đức và các vùng nông thôn, mật độ phân bố của các chi nhánh y tế và trung tâm y tế ít hơn 60% so với các vùng phát triển ở phía Tây và tình trạng thiếu hụt nhân viên điều dưỡng chuyên nghiệp sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn khi già hóa dân số.

Kim tự tháp dân số - Kim tự tháp dân số của Đức năm 2022

Đức

Vào năm 2022, phân bố dân số của Đức là:

Tổng cộng dân số

83.426.788

100%

Vị thành niên dân số

11.626.786

13,94%

Đang làm việc tuổi dân số

53.221.159

63,79%

Người già dân số

18.578.843

22,27%

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ chiếm chưa đến 60% tổng dân số vào năm 2030. Dân số cao tuổi sẽ gấp đôi dân số thanh thiếu niên vào năm 2033. Tổng dân số sẽ đạt đỉnh ở mức 83.426.788 vào năm 2022.

Vào năm 2050, dân số cao tuổi sẽ chiếm 30,43% dân số Đức và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng. [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Nga

Bối cảnh lịch sử

Kể từ khi Liên Xô tan rã năm 1991, dân số Nga đã giảm sút vì nhiều lý do kinh tế và xã hội. Dân số Nga là 148,6 triệu người vào năm 1993, và giảm xuống còn khoảng 142,8 triệu người vào năm 2008, giảm gần 6 triệu người. Từ năm 1992 đến năm 2008, tổng dân số Nga đã giảm từ 148,5 triệu người xuống còn 142,7 triệu người, giảm khoảng 5,8 triệu người.

Năm 2013, Nga chứng kiến ​​mức tăng trưởng dân số tự nhiên đầu tiên kể từ khi giành độc lập, với số ca sinh nhiều hơn số ca tử là 22.900. Năm 2015, tổng dân số Nga tăng lên 146,3 triệu người, hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của "Khái niệm Chính sách Dân số Liên bang Nga đến năm 2025" trước thời hạn. Năm 2017, tổng dân số Nga tăng lên 146,88 triệu người, là mức tăng trưởng dân số cao thứ hai của Nga kể từ khi Liên Xô sụp đổ.

Tuy nhiên, các yếu tố kinh tế và xã hội dẫn đến sự suy giảm dân số ở Nga vẫn chưa được cải thiện căn bản, và áp lực giảm dân số đã quay trở lại sau một thời gian ngắn giảm bớt. Từ năm 2018, dân số Nga lại bắt đầu suy giảm, và mức độ suy giảm ngày càng nghiêm trọng hơn.

Theo thông lệ quốc tế, khi dân số người cao tuổi trên 60 tuổi của một quốc gia chiếm 10% tổng dân số, hoặc dân số người cao tuổi trên 65 tuổi đạt 7% tổng dân số, điều đó có nghĩa là quốc gia đó đã bắt đầu bước vào một xã hội già hóa. "Tỷ lệ phụ thuộc của người cao tuổi ở Nga cao tới 34% đến 36%. Tỷ lệ phụ thuộc của người cao tuổi của các quốc gia có xu hướng già hóa nghiêm trọng trên thế giới trong cùng kỳ là: 17,2% đến 24,2% ở Nhật Bản, 24,1% đến 24,3% ở Anh và 21,7% ở Đức. %~23,7%, Pháp 21,3% đến 24,8%. Từ một so sánh quốc tế, tỷ lệ phụ thuộc của người cao tuổi ở Nga ở mức rất cao, điều này cho thấy mức độ già hóa của dân số Nga là rất nghiêm trọng." Tính đến tháng 1 năm 2005, dân số Nga trên 65 tuổi chiếm 17,33% tổng dân số, trong đó dân số trên 65 tuổi chiếm 13,72% tổng dân số. Do đó, Nga đã thực sự là một quốc gia già hóa dân số.

Sau một sự suy giảm nhỏ vào năm 2018 và 2019, tình hình nhân khẩu học của Nga đã mở ra một năm 2020 cực kỳ tồi tệ. Bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh virus corona mới, số ca tử vong vào năm 2020 đã tăng 18% so với năm 2019, đạt khoảng 2,139 triệu, trong đó khoảng 104.000 ca tử vong là do trực tiếp virus corona mới gây ra. Trong cùng kỳ, số ca sinh ở Nga là khoảng 1,437 triệu, giảm 44.600 so với năm 2019. Số ca tử vong nhiều hơn số ca sinh và mức suy giảm dân số tự nhiên là cao nhất kể từ năm 2005. Dịch bệnh đã hạn chế dòng người nhập cư nước ngoài và vào năm 2020, Nga sẽ chỉ bổ sung khoảng 100.000 người thông qua nhập cư nước ngoài. Sự kết hợp giữa sự suy giảm dân số tự nhiên và sự sụt giảm mạnh trong lượng người nhập cư nước ngoài đã dẫn đến sự sụt giảm dân số khoảng 600.000 người ở Nga vào năm 2020, gấp 18 lần so với năm 2019 và là mức giảm lớn nhất kể từ năm 2003.

Năm 2019, tỷ lệ dân số Nga trên 65 tuổi là 14%, và đến đầu năm 2021 đã đạt 15,5%. Mặc dù tình trạng già hóa dân số ở Nga chưa nghiêm trọng như Nhật Bản và các nước châu Âu, nhưng đã đạt đến mức độ của các nước phát triển như Mỹ, Úc và Canada, và hiện tượng "già trước khi giàu" đang ngày càng trở nên phổ biến. Thứ hai, vấn đề mất cân bằng giới tính vẫn chưa được giải quyết. Năm 2021, nam giới sẽ chiếm 46,3% dân số Nga và nữ giới chiếm 53,7%, với số lượng nữ giới nhiều hơn nam giới gần 11 triệu người.

Khảo sát mới nhất

Theo Cục Thống kê Liên bang Nga, tính đến đầu năm 2020, tổng dân số Nga là 146,781 triệu người, trong đó hơn 32 triệu người trên 60 tuổi, chiếm 21,8% tổng dân số.

Theo số liệu cụ thể, tính đến đầu năm 2020, dân số Nga là 146,781 triệu người, bao gồm 68,097 triệu nam và 78,684 triệu nữ. Theo nhóm tuổi cụ thể:

1) Có hơn 18 triệu trẻ em từ 0-9 tuổi và hơn 14,7 triệu thanh thiếu niên từ 10-19 tuổi;

2) Có hơn 17,3 triệu người trẻ trong độ tuổi 20-29, 24,4 triệu người trong độ tuổi 30-39 và 20,3 triệu người trong độ tuổi 40-49;

3) Có 19,8 triệu người nghỉ hưu ở độ tuổi 50-59;

4) Có hơn 32 triệu người trên 60 tuổi, chiếm 21,8% tổng dân số.

RU Liên bang Nga

Vào năm 2022, phân bố dân số của Liên bang Nga là:

Tổng cộng dân số

144.732.514

100%

Vị thành niên dân số

25.685.450

17,75%

Đang làm việc tuổi dân số

96.329.309

66,56%

Người già dân số

22.717.755

15,70%

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ chiếm chưa đến 60% tổng dân số vào năm 2051. Tổng dân số đạt đỉnh vào năm 1994 với 148.932.648 người.

Vào năm 2050, dân số cao tuổi chiếm 24,12% dân số Liên bang Nga và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng. [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Nam Mỹ

Brazil

Theo kết quả khảo sát mẫu hộ gia đình toàn quốc do Viện Địa lý và Thống kê Quốc gia (IBGE) công bố vào thứ Sáu (ngày 22), dân số Brazil sẽ có xu hướng già hóa trong thập kỷ từ năm 2012 đến năm 2021.

Theo báo cáo, tỷ lệ dân số Brazil dưới 30 tuổi so với tổng dân số cả nước sẽ giảm từ 49,9% năm 2012 xuống còn 43,9% năm 2021. Về mặt số liệu dân số, số người trong nhóm tuổi này đã giảm từ 98,7 triệu xuống 93,4 triệu trong thập kỷ qua, giảm 5,4%. Trong số đó, dân số từ 14 đến 17 tuổi đã giảm từ 14,1 triệu xuống 12,3 triệu trong mười năm, giảm 12,7%.

Mặt khác, tỷ lệ dân số từ 30 tuổi trở lên đã tăng từ 50,1% năm 2012 lên 56,1% năm 2021, tăng 20,4% từ 99,1 triệu người lên 119,3 triệu người. Tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên tăng từ 11,3% lên 14,7%, tăng 39,8% từ 22,3 triệu người lên 31,2 triệu người.

Trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2021, tổng dân số Brazil tăng 7,6% từ 197,7 triệu lên 212,7 triệu người.

Theo báo cáo do tờ South American Overseas Chinese News biên soạn, dữ liệu do Viện Địa lý và Thống kê Brazil (IBGE) công bố ngày 25 cho thấy dân số Brazil sẽ đạt 233 triệu người vào năm 2047, nhưng dân số Brazil sẽ giảm dần từ năm 2048 xuống còn 228 triệu người vào năm 2060.

Năm 2018, Brazil có 161 triệu cử tri tiềm năng hoặc công dân từ 16 tuổi trở lên, tăng 2,5 phần trăm so với năm 2016.

Tuổi thọ trung bình ở Brazil năm 2020 là 72,74 tuổi đối với nam và 79,8 tuổi đối với nữ. Đến năm 2060, tuổi thọ trung bình ở Brazil sẽ tăng lên 77,9 tuổi đối với nam và 84,23 tuổi đối với nữ.

Đến năm 2060, tỷ lệ dân số trên 65 tuổi dự kiến ​​sẽ vượt quá một phần tư. Tỷ lệ người cao tuổi ở Brazil hiện nay là 9,2%, tăng lên 20% vào năm 2046 và 25,5% vào năm 2060.

Kim tự tháp dân số - Dân số Brazil năm 2022

BR Brazil

Vào năm 2022, phân bố dân số của Brazil là:

Tổng dân số

214.824.774

100%

Dân số vị thành niên

43.831,707

20,40%

Dân số trong độ tuổi lao động

150.102,853

69,87%

Dân số cao tuổi

20.890,214

9,72%

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ chiếm chưa đến 60% tổng dân số vào năm 2060. Dân số cao tuổi sẽ gấp đôi dân số trẻ vào năm 2064. Tổng dân số đạt đỉnh là 231.180.088 vào năm 2047.

Vào năm 2050, dân số cao tuổi sẽ chiếm 21,68% dân số Brazil và vấn đề già hóa dân số đang rất nghiêm trọng. [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]

Hình 2 [Thống kê toàn cầu của Ngân hàng Thế giới]